Là tỉnh có hệ thống kênh rạch chằng chịt cùng bờ biển dài hơn 32 km và vị trí địa lý gần TP.HCM nên Tiền Giang có điều kiện rất thuận lợi để nuôi cá cảnh, song nghề này vẫn chậm phát triển.

Không biến động

Theo giới kinh doanh cá cảnh lâu năm, nghề nuôi cá cảnh tại Tiền Giang bắt đầu hình thành từ đầu những năm 1980 với một cơ sở chuyên bán cá cảnh tại phường 1 (TP Mỹ Tho). Nhưng chỉ vài năm sau thì cơ sở này đóng cửa.

Mãi đến năm 1990, nghề SXKD cá cảnh mới bắt đầu nhen nhóm trở lại với vài hộ làm quy mô nhỏ. Điển hình là hộ ông Nguyễn Văn Giác ở phường 5 (TP Mỹ Tho) chuyên nuôi cá tàu, lia thia trên diện tích 400 m2, hộ ông Lê Văn Đực cũng nuôi 300 m2.

Trong 5 năm gần đây, quy mô cũng như sản lượng các cơ sở SXKD cá cảnh vẫn không có sự biến động lớn. Bên cạnh cơ sở mới hình thành thì cũng có nơi hoạt động không hiệu quả phải đóng cửa. Hiện nay, theo số liệu khảo sát chưa đầy đủ của ngành chức năng, Tiền Giang có trên 70 cơ sở SXKD cá cảnh phân bố ở các vùng nước ngọt phía Tây của tỉnh nhưng chủ yếu vẫn tập trung ở TP Mỹ Tho.

Qua kết quả khảo sát của cơ quan quản lý thủy sản, hầu như các cơ sở SXKD cá cảnh đều không có kế hoạch mở rộng quy mô, mà chủ yếu là giữ nguyên, thậm chí có hộ dự định thu hẹp SX. Hiện các cơ sở cung cấp cho thị trường trên 20 loài cá cảnh các loại, nhưng chỉ 7 – 8 loài có thị trường tiêu thụ ổn định.


Cá cảnh, một đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao


Gần đây, cơ cấu các loài cá cảnh đã có sự chuyển biến rõ rệt theo hướng tăng tỷ lệ các loài cá cảnh có giá trị cao. Tuy nhiên, các loại cá giá trị thấp vẫn chiếm tỷ lệ cao, trong số xấp xỉ 3 triệu cá cảnh cung cấp cho thị trường hằng năm thì các loài có giá trị cao như cá dĩa, cá Phượng Hoàng, cá ba đuôi chiếm gần 50%, còn lại là loài có giá trị thấp như cá bảy màu, trân châu, cá lia thia.

Do đặc thù phân bố, nên nghề nuôi cá cảnh trên địa bàn tỉnh chủ yếu là cá nước ngọt. Thị trường tiêu thụ chủ yếu qua các thương nhân kinh doanh, xuất khẩu cá cảnh tại TPHCM, chỉ một số ít được bán phục vụ nhu cầu trong tỉnh. Bên cạnh đó, một số hộ bắt cá bột từ TPHCM về ương dưỡng trong vài tháng thành cá giống lớn rồi giao trở lại nơi cung cấp giống.

Theo các chuyên gia thủy sản, nhu cầu tiêu thụ cá cảnh trên thị trường rất đa dạng và thường xuyên thay đổi nên việc kịp đáp ứng nhu cầu là một vấn đề khó, nhất là đối các cơ sở SXKD cá cảnh quy mô nông hộ.

Tuy nhiên, nếu kiên trì gắn bó với nghề, lựa chọn những loài có đầu ra ổn định, đầu tư SX giống theo nhu cầu của thị trường, đồng thời tích lũy kinh nghiệm, nâng cao được tỷ lệ sống thì đây là một nghề có thu nhập khá so với các nghề nông nghiệp khác và có thể mang lại công ăn việc làm 3 – 4 nhân khẩu chỉ với diện tích 300 – 400 m2.

Khó khăn

Mặc dù, trải qua chặng đường khá dài nhưng nghề nuôi cá cảnh ở Tiền Giang có thể nói là chậm phát triển. Hầu như các cơ sở đều hình thành tự phát, manh mún; thậm chí cạnh tranh tiêu cực, chưa thống nhất được về một hướng. Đến nay vẫn chưa tập hợp được những người nuôi cá cảnh lại với nhau thành tổ chức hội, việc quy hoạch nuôi cũng chưa được quan tâm xây dựng.

Theo kết quả khảo sát, đa phần chủ các cơ sở SXKD cá cảnh chưa qua đào tạo bài bản mà chủ yếu học lỏm hay tự mày mò, rút kinh nghiệm. Trong khi đó các tài liệu kỹ thuật về cá cảnh rất hiếm, các lớp dạy nghề nuôi rất thưa thớt, người nuôi chưa nhận được sự trợ giúp nào về kỹ thuật nuôi, nguồn vốn SX cũng như tiếp cận thị trường.

Hầu hết các hộ nuôi cá cảnh xuất bán cho các đầu mối thu mua ở các chợ cá cảnh tại TPHCM. Các đầu mối thu mua này có mối liên hệ chặt chẽ với các hộ SXKD cá cảnh lâu năm trong nghề và các hộ này thường chỉ giới thiệu lại cho một số anh em, bà con thân tộc. Vì thế hộ mới đầu tư nuôi rất khó kiếm được đầu ra. Trong khi đó, thị trường tiêu thụ cá cảnh trong và ngoài nước nói chung ngày càng thu hẹp do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế.

Những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng, các mương rạch trong thành phố dần bị thu hẹp, bồi lấp và nhiễm bẩn nên có hơn 2/3 số hộ nuôi cá cảnh sử dụng nguồn nước giếng khoan. Chất lượng nước giếng khoan tại TP Mỹ Tho có thể nuôi được nhiều loại cá cảnh nước ngọt nhưng khi muốn cho sinh sản một số loài cá có giá trị cao như cá dĩa cần có biện pháp giảm độ cứng.


Cần quy hoạch vùng nuôi cá cảnh tập trung


Tuy nhiên, hiện tại chỉ có một số ít hộ nuôi cá cảnh có diện tích ao, bể thực hiện các biện pháp lắng lọc nước giếng trước khi đưa vào nuôi cá nên cũng có ảnh hưởng đến sức sinh sản cũng như tỷ lệ sống của một số loài.

Trong nuôi cá cảnh, trùn chỉ và trứng nước là hai loại thức ăn chủ lực. Trong đó, nguồn trứng nước đã chủ động SX được trong tỉnh nhưng trùn chỉ thì lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn cung cấp từ TPHCM với số lượng có hạn và khan hiếm vào các tháng cuối mùa khô. Do đó, một số hộ dân có ý định đầu tư nuôi cá cảnh còn e ngại vì không tìm được nguồn cung cấp trùn chỉ.

Giống như các loại cá nuôi khác, cá cảnh cũng thường mắc những bệnh như ký sinh trùng, nấm, vi khuẩn. Tuy nhiên, khi cá mắc bệnh việc điều trị chủ yếu là dùng thuốc xử lý nước, rất khó đưa thuốc vào cơ thể cá bằng đường thức ăn vì cá cảnh có thói quen ăn thức ăn tươi sống.

Hơn nữa, việc điều trị bệnh chủ yếu sử dụng kháng sinh mua ở các tiệm thuốc tây để ngâm tắm cá bệnh và thuốc thú y thủy sản khác chứ chưa có loại thuốc đặc trị cho cá cảnh…

Giải pháp

Trong những năm sắp tới, tốc độ đô thị hóa sẽ tiếp tục gia tăng, đồng thời mức sống của người dân đô thị được nâng cao, nhu cầu giải trí, thư giãn ngày càng tăng cao kéo theo nhu cầu cá cảnh ngày càng lớn. Đồng thời, Việt Nam cũng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, cơ hội giao lưu trao đổi xuất nhập khẩu cá cảnh với các nước mở ra.

Để nghề nuôi cá cảnh phát triển, đáp ứng nhu cầu thị trường cần phải có quy hoạch vùng nuôi tập trung gắn tiềm năng với nhu cầu thị trường, từ đó đầu tư cơ sở hạ tầng và có chính sách hỗ trợ về vốn, tìm kiếm thị trường cho người nuôi. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng xúc tiến thành lập Hội cá cảnh để chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật nuôi; đồng thời nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu thị trường cũng như tìm đầu ra ổn định.

Các hộ nuôi cần áp dụng một số biện pháp xử lý nước trước khi đưa vào nuôi cá như lắng lọc nước bằng hệ thống lọc cơ học hay sinh học để làm sạch và mềm nước tạo môi trường thích hợp cho sự sinh sản và phát triển của nhiều loài cá cảnh có giá trị cao.

Đồng thời nghiên cứu sử dụng các nguồn thức ăn tự nhiên có thể tự SX được như trứng nước, trùn quế, trùng cỏ, ấu trùng artemia hay thức ăn viên tổng hợp. Nếu có điều kiện thì tiến hành nuôi trùn chỉ tại nông hộ để chủ động được nguồn thức ăn và hạn chế mang mầm bệnh cho cá nuôi.

Mục nhập này đã được đăng trong Blog. Đánh dấu trang permalink.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *